Hợp tác công tư – Kinhtehoinhap.com https://kinhtehoinhap.com Nơi cung cấp thông tin, phân tích chuyên sâu về kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Cập nhật tin tức, chính sách và xu hướng thị trường. Fri, 03 Oct 2025 18:36:50 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/kinhtehoinhap.svg Hợp tác công tư – Kinhtehoinhap.com https://kinhtehoinhap.com 32 32 Nghị quyết 57 mở ra cơ hội lớn cho nghiên cứu khoa học https://kinhtehoinhap.com/nghi-quyet-57-mo-ra-co-hoi-lon-cho-nghien-cuu-khoa-hoc/ Fri, 03 Oct 2025 18:36:49 +0000 https://kinhtehoinhap.com/nghi-quyet-57-mo-ra-co-hoi-lon-cho-nghien-cuu-khoa-hoc/

Nghị quyết số 57/NQ-TW đã mở ra những cơ hội lớn cho các tổ chức nghiên cứu khoa học tại Việt Nam. Theo Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng Trường đại học Công nghệ, Đại học quốc gia, nghị quyết này mang đến bốn cơ hội chính. Thứ nhất, thúc đẩy tái cấu trúc và nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu theo hướng gắn kết với thực tiễn và nhu cầu phát triển đất nước. Thứ hai, tạo ra cơ hội hợp tác công-tư và liên kết quốc tế trong chuyển giao công nghệ theo mô hình ‘liên kết ba nhà’: Nhà nước-Nhà khoa học-Doanh nghiệp. Thứ ba, góp phần thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động nghiên cứu, quản lý và kết nối tri thức. Thứ tư, tạo cú hích nâng cao chất lượng đội ngũ nghiên cứu, xây dựng môi trường học thuật sáng tạo.

Ngay sau khi Nghị quyết ban hành, các tổ chức nghiên cứu đã có những hành động cụ thể để đưa nghị quyết vào cuộc sống. Trường đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đã có những điều chỉnh quan trọng để phù hợp với xu thế phát triển và đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tập trung vào các hướng nghiên cứu có tính ứng dụng cao. Các cơ sở nghiên cứu thuộc các đơn vị nhà nước và khu vực tư nhân đã quan tâm phát triển những sản phẩm, giải pháp có tính thực tiễn và khả năng ứng dụng cao.

Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực tiềm năng vẫn chưa được đầu tư nghiên cứu để phát huy lợi thế, tận dụng các cơ hội từ Nghị quyết số 57-NQ/TW. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đồng Văn Quyền, Phó Viện trưởng Viện Sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, cho rằng Việt Nam có lợi thế lớn về đa dạng sinh học và nguồn vi sinh vật bản địa, nhưng ứng dụng công nghệ vi sinh vào cuộc sống vẫn còn hạn chế.

Để hiện thực hóa các chủ trương, cần tăng cường liên kết ‘Nhà nước-Nhà Khoa học-Doanh nghiệp-Cộng đồng’ trong hoạt động khoa học, công nghệ. Các viện nghiên cứu, trường đại học, trung tâm đổi mới sáng tạo cần trở thành mắt xích quan trọng trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Đình Đức cho rằng các cơ sở đào tạo, tổ chức nghiên cứu cần xác định rõ vai trò cốt lõi để thật sự trở thành trung tâm sáng tạo, nơi sản sinh tri thức và chuyển hóa tri thức thành công nghệ, thành sản phẩm.

Ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Chủ tịch Điều hành Tập đoàn CMC, đề xuất thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo của Hà Nội, đặt tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc, theo mô hình đầu tư công-quản trị tư. Trung tâm này sẽ là đầu mối chiến lược kết nối các nguồn lực R&D, đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ, hình thành các vườn ươm, tổ chức hoạt động khởi nghiệp, vận hành sàn giao dịch công nghệ và tạo ra không gian mở, thúc đẩy các sản phẩm ‘Make in Vietnam’ từ ý tưởng đến thương mại hóa.

Một số nhà khoa học chỉ ra nguyên nhân khiến đóng góp của khoa học công nghệ đối với phát triển kinh tế xã hội còn hạn chế là các đề tài nghiên cứu được xây dựng với thời gian thực hiện ngắn, không đủ giải quyết các bài toán khoa học-công nghệ mang tính nền tảng hoặc chiến lược; thiếu cơ chế tài trợ trung và dài hạn, khiến các nhóm nghiên cứu khó theo đuổi các hướng đi bền vững, có khả năng tạo ra đột phá công nghệ thật sự; còn thiếu các chương trình chuyển giao hiệu quả.

Trước những thách thức và cơ hội đó, việc thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam đòi hỏi sự chung tay của các cơ quan quản lý, các nhà khoa học và doanh nghiệp. Nghị quyết số 57-NQ/TW đã mở ra một giai đoạn mới trong phát triển khoa học và công nghệ tại Việt Nam. Để nghị quyết sớm đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, cần có những bước đi cụ thể, đồng bộ và sự tham gia tích cực của các bên liên quan. Hãy đón chờ những kết quả tích cực từ việc triển khai nghị quyết này trong thời gian tới. https://www.*********.com

]]>
Nâng cấp hệ thống thông tin để minh bạch hóa đầu tư ngoài ngân sách https://kinhtehoinhap.com/nang-cap-he-thong-thong-tin-de-minh-bach-hoa-dau-tu-ngoai-ngan-sach/ Sun, 27 Jul 2025 20:33:40 +0000 https://kinhtehoinhap.com/nang-cap-he-thong-thong-tin-de-minh-bach-hoa-dau-tu-ngoai-ngan-sach/

Dòng vốn đầu tư ngoài ngân sách, bao gồm nguồn lực từ khu vực tư nhân trong nước, hợp tác công-tư (PPP) và các hình thức xã hội hóa, đang ngày càng trở thành kênh bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả của dòng vốn này, cần thiết phải có một hệ thống quản lý minh bạch, thống nhất, cũng như nâng cao năng lực điều hành dự án từ khâu chuẩn bị, thực hiện đến vận hành và giám sát.

Theo báo cáo giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư năm 2024 của Bộ Tài chính, mới chỉ có 84 đơn vị báo cáo trên Hệ thống Thông tin quốc gia về đầu tư. Trong năm 2024, có 1.290 dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư; số dự án thực hiện đầu tư trong kỳ là 8.014 dự án; tổng vốn đầu tư đăng ký trong năm là 1.246.781 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện trong năm là 305.210 tỷ đồng. Đáng chú ý, có 4.204 dự án đã đi vào khai thác, vận hành; 2.777 dự án có lợi nhuận, tổng số tiền nộp ngân sách lên đến khoảng 67.532 tỷ đồng.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong quản lý đầu tư. Trong năm 2024, có 2.516 dự án được kiểm tra, đánh giá, trong đó có 1.667 dự án vi phạm quy định liên quan đến quản lý đầu tư; 324 dự án bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và 2.605 dự án phải điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Những con số này cho thấy chất lượng công tác chuẩn bị, thẩm định, giám sát và hậu kiểm vẫn còn nhiều hạn chế.

Nguyên nhân được chỉ ra là do một số dự án gặp vướng mắc về thủ tục đầu tư, các quy định pháp luật chưa đầy đủ, chưa phù hợp hoặc có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định. Nhiều dự án gặp khó khăn, vướng mắc trong việc bồi thường, giải phóng mặt bằng làm ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư các dự án; một số dự án chậm triển khai thực hiện do năng lực tài chính của nhà đầu tư còn yếu, công tác quản lý dự án còn nhiều hạn chế.

Để tháo gỡ những điểm nghẽn hiện nay, nhiều giải pháp đã được các bộ, ngành kiến nghị. Trước hết, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành nghiên cứu, ban hành chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khơi thông và ổn định nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu; đưa ra những giải pháp tháo gỡ các vướng mắc về logistic; khuyến khích phát triển ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho những ngành xuất khẩu chủ lực.

Về phía Bộ Tài chính cũng được kiến nghị tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện Hệ thống Thông tin quốc gia về đầu tư để đảm bảo hệ thống vận hành thông suốt, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu sử dụng, khai thác.

Các chuyên gia kinh tế nhận định, dự án sử dụng vốn ngoài ngân sách hiện đóng vai trò ngày càng lớn trong phát triển kinh tế – xã hội, nhưng đi cùng với đó là đòi hỏi khắt khe về năng lực quản lý, tính minh bạch trong triển khai và sự nhất quán của chính sách điều hành. Vì vậy, để khắc phục tình trạng báo cáo sơ sài, thiếu cập nhật và nâng cao hiệu quả quản lý các dự án vốn ngoài ngân sách, Việt Nam có thể nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng cơ chế giám sát sau đầu tư (post-project review).

Đặc biệt, với các dự án có yếu tố đầu tư nước ngoài, tính ổn định và nhất quán của chính sách lại càng đóng vai trò then chốt. Những điều chỉnh đột ngột về giá, thuế, ưu đãi… nếu thiếu lộ trình rõ ràng sẽ dễ gây tâm lý lo ngại trong cộng đồng nhà đầu tư quốc tế, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường đầu tư và uy tín quốc gia. Vì vậy, đảm bảo khung pháp lý ổn định, minh bạch và có khả năng dự báo là yêu cầu cấp thiết.

]]>